Nếu
những dòng tiêu đề này mà viết ra cách đây năm mươi năm thì có lẽ tôi
đã có vinh hạnh đuợc làm quen với Trần Dần, Lê Đạt trong nhà tù rồi.
Cũng thật may và thật tiếc cho tôi là hồi ấy tôi còn quá nhỏ nên đã
không có đuợc cái vinh hạnh ấy. Thời kì mông muội của tư duy và tri thức
đã qua rồi.
Dân
trí đã đuợc nâng lên đến cái mức mà những điều ngày xưa chúng ta tin
thì bây giờ chẳng còn ai tin nữa. Có những điều ngày xưa chúng ta tôn
thờ thì ngày nay ai cũng cho đó là một điều ngớ ngẩn. Một trong những
điều đó là quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân
sinh? Một cuộc tranh cãi suốt cả một thời kì dài và nó chỉ kết thúc khi
ông Truờng Chinh đưa ra bản cương lĩnh về văn hóa và Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo đất nước. Không còn tranh cãi nữa, tất nhiên, nhưng không
phải vì thế mà nó mất đi. Câu hỏi đó vẫn âm ỉ trong những người làm nghệ
thuật và rồi ở đâu đó, vào một lúc nào đó nó lại bật ra và nó lại làm
khổ những người cầm bút.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Đã làm cho tác giả của nó khốn nạn đến cuối đời. Cho đến bây giờ thì bài thơ Tây tiến
của Quang Dũng chẳng ai dám bảo là không hay, mà cái hay của nó chính
lại nằm trong cái chất trí thức tạch tạch sè, cái mà người ta dùng nó để
ấn Quang Dũng xuống bùn.
Thật
là lạ, người phê phán bài thơ lại chính là Tố Hữu, một người từng được
những tên “Đĩ văn” tung hô là Nguyễn Du của thời đại. Tôi chẳng dám tin.
Tôi! Một thằng cha căng chú kiết chưa bao giờ có nổi một bài thơ đăng
báo, lại có một trình độ cảm thụ thơ hơn Tố Hữu, một đại thi hào đất
Việt. Tôi cũng biết, một bài thơ có thể là hay với người này nhưng vẫn
là không hay với người khác. Nghệ thuật, bản thân nó đã là một cái gì đó
hữu hình mà vô hình khó nắm bắt và càng không thể có một thước đo thống
nhất cho tất cả mọi người.
Nếu
nói như vậy chẳng lẽ lại có thể nói rằng: Ông Nguyễn Thế Duyên, người
viết bài này, một thằng cha vô danh tiểu tốt chưa hề có một bài đăng
báo, cũng tài như ông Tố Hữu một Nguyễn Du của thời đại được ư? Không
thể đúng đuợc bởi còn có một thước đo khác, thước đo này rất hữu hình đó
là số lượng độc giả yêu thích văn thơ của bạn. Nếu dùng thước đo này
thì chắc chắn tôi là một con số không to đùng còn Tố Hữu hơn tôi đến vô
cùng lần. Tôi thấy hay chẳng lẽ Tố Hữu không thấy hay? Không! Tôi chắc
rằng Tố Hữu cũng thấy hay lắm. Nhưng khi ông dùng cái thước đo “Nghệ
thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh” để đo bài thơ này thì
bài thơ này đáng bị vứt vào sọt rác và tác giả của nó đáng bị dìm xuống
bùn đen.
Vậy
đấy! Khi dùng cái thước “Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị
nhân sinh”, cái thước này đã giết chết cả một thế hệ vàng của thi ca
Việt Nam, đó chính là thế hệ những nhà thơ mới. Khi người ta bắt các thi
nhân phải viết theo thước đo này thì hầu hết các thi nhân đều chết, chỉ
còn mỗi Chế Lan Viên còn sống, Xuân Diệu, Huy Cận, Anh Thơ, Nguyễn
Bính, Thâm Tâm chẳng một ai viết đuợc một bài thơ nào nên hồn. Họ đã
chết bởi một thứ gọi là thước đo cũng được mà gọi là chiếc roi cũng đúng
“Nghệ thuật vị nhân sinh”.
Đấy
là về thơ. Còn về văn xuôi cũng chẳng hơn gì. Hoài Thanh! Chết. Nguyễn
Tuân! Chết. Kim Lân! Chết…. Cả một thế hệ nhà văn thời thơ mới chẳng ai
viết đuợc cái gì cho ra hồn. Tôi có một lần ngồi nói chuyện với giáo sư
Hoàng Như Mai, Giáo sư văn học, ông có kể cho tôi nghe một giai thoại có
thật nghe mà cười ra nước mắt. Ông Hoàng Như Mai kể khi cụ Nguyễn Tuân
còn sống cụ bảo với mọi người là khi cụ chết đi nhớ đốt cho cụ (đốt hình
nhân vàng mã) một thằng phê bình văn học. Cụ bảo:
-Xuống dưới ấy mới có thể nói thật với nhau đuợc.
Cả
một thế hệ tài năng của nền thơ mới chết trong lúc tài năng của họ đang
chín. Đó là một thiệt thòi cho nền văn học nuớc nhà nhưng tổn thất còn
hơn thế nữa là cả một cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp của
chúng ta gần như vắng bóng trong văn học. Cuộc kháng chiến chín năm ấy
có lẽ chỉ còn mỗi ông Tố Hữu, nhưng một nhà thơ dù có tài đến bao nhiêu
thì cũng không thể khắc họa lại đuợc đầy đủ một cuộc kháng chiến của cả
một dân tộc. Mà ông Tố Hữu có thực tài không thì còn là một câu hỏi chưa
có lời giải đáp.
Hậu
quả của cái nghệ thuật vị nhân sinh ấy nó còn kéo dài suốt cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước. Nền văn học trong thời kì chống Mỹ cứu nuớc có
khá hơn thời kì chống Pháp. Đất nuớc đã có đủ thời gian để tạo nên một
thế hệ nhà văn, nhà thơ mới để khắc họa lại những khoảnh khắc hào hùng
của dân tộc như Anh Đức, Nguyễn Minh Châu, Phạm Tiến Duật v.v…
Nhưng!
Vâng, lại có một chữ nhưng nữa. Cái “Nghệ thuật vị nhân sinh” đã trở
thành một cái khuôn đúc, đúc ra những người lính giống hệt nhau trong
tất cả các tác phẩm văn học thời kì này. Người lính của Nguyễn Trung
Thành cũng giống người lính của Anh Đức, cũng giống người lính của
Nguyễn Minh Châu, tất cả đều căm thù giặc, bỏ tình riêng, lao lên họng
đại liên cứ như đang lao vào một bữa tiệc. Họ chỉ là những hình nhân
biết cử động vì họ được đúc bằng cùng một cai khuôn “Nghệ thuật vị nhân
sinh”.
Hãy
nhìn lại thời kì hiện thực phê phán, cái anh nông dân Chí Phèo của Nam
Cao khác hẳn với anh nông dân Pha của Ngô Tất Tố. Cô thôn nữ Mịch của Vũ
Trọng Phụng khác hẳn với cô thôn nữ Dậu trong Tắt đèn. Họ không đuợc
tạo ra từ cùng một cái khuôn nên khuôn mặt của họ lung linh sống động
hằn sâu vào tâm trí người đọc và tên của họ làm người đọc nhớ. Còn văn
học xã hội chủ nghĩa của chúng ta các khuôn mặt đều từa tựa giống nhau
nên tên của họ chẳng để lại trong tâm trí người đọc. Không hiểu có ai
nhớ nổi tên nhân vật trong “Xung kích” của Nguyễn Đình Thi hay tên một
ai trong tác phẩm đồ sộ “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu? Tôi
thì tôi chả nhớ.
Nghệ
thuật nói chung và văn học nói riêng cái bản sắc cá nhân của người cầm
bút là vô cùng quan trọng. Nó làm cho văn học phong phú, đa chiều mà bản
sắc cá nhân ấy chỉ có thể có được khi nó “Vị nghệ thuật” mà thôi. Khi
bắt Quang Dũng phải viết về người lính tri thức cũng giống như Hoàng
Trung Thông viết về người lính nông dân thì Quang Dũng sẽ chết và thực
sự Quang Dũng đã chết.
Không
có gì ngớ ngẩn hơn khi đặt ra câu hỏi “Nghệ thuật vị nghệ thuật hay là
nghệ thuật vị nhân sinh”, bởi vì bản thân nghệ thuật sinh ra là do nhu
cầu của cuộc sống con người. Tức là nó đã “Vị nhân sinh” rồi đấy. Hội
họa bắt đầu từ những hình vẽ trên những vách đá mà người tiền sử muốn
nói lại với những người khác điều họ đã bắt gặp. Văn chuơng bắt đầu từ
những thủ tục cúng tế của người thời xưa, một nhu cầu về mặt tâm linh
của con người. Nghệ thuật bắt nguồn từ “Vị nhân sinh” và khi nó thông
qua cái “Vị nghệ thuât” tức là nó đã vì con người ở mức độ cao hơn.
Khi
nghệ thuật “Vị nhân sinh” mà không thông qua con đuờng “Vị nghệ thuật”
thì nó không còn là nghệ thuật nữa mà nó trở thành một sản phẩm tuyên
truyền. Ta hãy đọc lại một bài thơ của cụ Hồ Chí Minh:
Hòn đá to,
hòn đã nặng
Một người nhấc
nhấc không đặng
Hòn đá nặng,
hòn đã bền
Một người nhấc,
Nhấc không nên
Tôi
không cho rằng đây là bài thơ dù người viết là Cụ Hồ Chí Minh. Và tôi
nghĩ chính Cụ Hồ cũng ý thức đuợc điều đó và chắc là Cụ cũng khổ tâm lắm
khi phải viết như vậy cho những người nông dân thất học. Một người viết
nên những áng thơ như Nhật kí trong tù
mà phải viết những vần như vậy thì còn gì khổ hơn. Nhưng Cụ đã hy sinh.
Lúc này Cụ không còn là thi nhân nữa mà Cụ là một nhà cách mạng. Những
bài thơ chúc tết sau này của Cụ cũng như vậy.
Văn
học có chức năng tuyên truyền nhưng dứt khoát nó phải thông qua con
đuờng “Vị nghệ thuật” thì nó mới trở thành một tác phẩm nghệ thuật, nếu
không nó chỉ là một sản phẩm tuyên truyền. Hình như Ban tư tưởng văn hóa
trung ương không biết đuợc điều này .
Nghệ
thuật vị nghệ thuật chính là nghệ thuật vị nhân sinh đuợc đưa lên một
đỉnh cao mới. Ở đỉnh cao này, nghệ thuật không những thỏa mãn đuợc nhu
cầu thưởng thức văn hóa của con người mà hơn thế nữa, nó còn có tác dụng
bồi bổ và thanh lọc tâm hồn của con người và đấy chính là cái “Vị nhân
sinh” của cái “Vị nghệ thuật”. Khi dân trí đuợc nâng lên thì người đọc
chẳng thể nuốt trôi những tác phẩm chỉ “Vị nhân sinh” một cách thô
thiển.
Đáng
lẽ phải hòa cái “Vị nhân sinh” vào trong cái “Vị nghệ thuât” thì người
ta lại tách riêng hai cái ra khỏi nhau và đặt một câu hỏi hết sức ngu
ngốc “Vị nghệ thuật hay là vị nhân sinh?” và chính cái câu hỏi ngu ngốc
này đã đã làm nền văn học nước nhà chìm đắm.
Tiếc
thay cho xương máu của hàng triệu con người đất Việt đổ xuống trong hai
cuộc kháng chiến đã không lưu lại đuợc cho vài trăm năm sau một áng thơ
văn nào như “Bạch đằng giang phú” hay “Đại cáo bình Ngô”, trong khi hai
cuộc kháng chiến ấy còn hào hùng gấp mấy trăm lần cuộc kháng chiến
chống quân Minh hay quân Nguyên của cha ông chúng ta ngày trước
Trong
lúc người ta cứ hỏi “Vị nghệ thuật hay vị nhân sinh” thì tôi lại muốn
hỏi “Vị cái gì?”, vì hiện nay có rất nhiều tác phẩm như “Sợi xích” hay
“Gào” hay một số tập thơ mà đọc đi đọc lại tôi vẫn không thấy nó vị cái
gì – có chăng thì nó chỉ vị những bản năng thấp hèn của con người đang
đuợc in và bày bán tràn lan trong hiệu sách.
Khổ thân cho những người thích đọc và thích viết như tôi quá.
-Nguyễn Thế Duyên-
Hà Nội, 23—3 –2011
Trích: Vanhoctre.com




0 nhận xét:
Đăng nhận xét