tranh của Guan Zeju
|
“Nghệ thuật vị nghệ thuật hay Nghệ thuật vị nhân sinh?” là một đề tài tranh luận lâu đời giữa các văn nghệ sĩ trên thế giới.
Tại
Việt Nam, câu hỏi này đã gây nên một cuộc tranh luận vào thời tiền
chiến , "nghệ thuật vị nhân sinh" được ngầm hiểu là "dấn thân chính trị"
, cụ thể là tham chiến / phản chiến / lật đổ ... Và biến mất một cách
lạ lùng sau ngày đất nước thống nhất .
Vì sao "Dấn Thân" không còn là nguyên liệu của sáng tác của văn nghệ sĩ Việt nam hôm nay ?
"Dấn Thân" là gì ?
Có lẽ ta cần phải nhắc lại một lần nữa ý nghĩa và điều kiện của "Dấn Thân".
"Trên
nền cách mạng công nghiệp , thế kỷ 19 đã đặt một câu hỏi mà bấy giờ còn
rất mới lạ : Nghệ thuật phải ích lợi , hay chỉ đi tìm cái Đẹp lý tưởng ?
Sang thế kỷ sau, sự tra vấn này hừng lên với màu sắc chính trị.
Nhưng trước hết , còn cần phải xem liệu đem "thẩm mỹ" đối lập với "hữu dụng" là chính đáng hay không."
(Le Monde Diplomatique)
Jorge
Luis Borges từng quả quyết rằng : từ ngữ “nghệ thuật dấn thân” gây cho
ông cùng một cảm giác tựa như khi nghe nói đến “cách cưỡi ngựa Tin
Lành”.
Đối
với Borges, dùng từ “nghệ thuật dấn thân” cũng phi lý như dùng từ “cưỡi
ngựa Tin Lành”, khi ghép Tin Lành là một tôn giáo siêu hình vào một
hành động cưỡi ngựa cụ thể.
Với
Borges, không có “Nghệ thuật dấn thân” hay “Nghệ thuật không dấn thân" ,
chỉ có nghệ thuật mà thôi. Cũng như không có cách “cưỡi ngựa Công Giáo”
khác với cách “cưỡi ngựa Tin Lành.”
Trước
đây đã có không ít văn nghệ sĩ Miền Nam cho rằng sự phân chia này là
quá thiếu nghiêm túc và phi lý. "Dấn Thân" đã là một tính từ gây nên một
sự khó chịu với một số người , vì nó được dùng quá nhiều trong văn giới
Miền Nam . Ở Miền Nam , từ ngữ "Dấn Thân" chỉ dùng riêng cho một lối
dấn thân , đó là dấn thân về chính trị . "Văn nghệ chống đối" được coi
là văn nghệ dấn thân .
Tại sao lại có sự thu hẹp phạm vi "dấn thân" đến lạ lùng như vậy ?
Đã
có những dấn thân từ ngàn năm nay của nghệ thuật Tây phương trong lĩnh
vực tôn giáo, đã tạo ra nhiều hình dung từ : Byzantin, Lãng Mạn,
Gothique, hay chỉ đơn giản là Cơ Đốc , nhưng không hề có từ Dấn Thân.
Những
lý do thâm sâu biện minh cho sự hiện hữu của nghệ thuật là phải ứng xử
ra sao với chính trị, hay chính xác hơn nữa, trước chính quyền (giống
như tình yêu, thần chết hay tín ngưỡng).
Song
, với tính từ "Dấn Thân" , người văn nghệ sĩ hôm nay không những chỉ
cần có một quan điểm chính trị , mà còn cần phải chọn lấy một quyết định
gần như ám ảnh , đó là trưng bày chính kiến của mình , thậm chí khẳng
quyết rằng : nghệ thuật có thể dùng làm công cụ chuyển đổi xã hội , thay
đổi đời sống xã hội .
Và , sự “thay đổi đời sống" ấy là gì ?
Rất
khó để có câu trả lời chung cho tất cả mọi người , nhưng theo ước muốn
triệt để của Arthur Rimbaud , đó là tạo lập ra một cái gì khác, với
nhiều phương án giả định.
Tại
Việt Nam , đã có một thời chưa quá xa , dường như đã có một lớp văn
nghệ sĩ cho rằng : không thể tách rời nghệ thuật ra khỏi chính trị , hay
tinh thần tranh đấu . Và rồi tính từ "Dấn Thân" trở nên có vẻ mạnh hơn
là danh từ "Sự Dấn Thân".
Chính
trong sự mất quân bình này mà ta cần phải tìm nguyên nhân nào đã gây ra
sự mất uy tín (ít nhiều) cho từ ngữ “Nghệ thuật dấn thân" .
Nếu
“sự dấn thân” thật sự luôn đi cùng với một đổi mới quan trọng trong
văn nghệ , trong chính trị, trong đời sống xã hội ..., theo hướng tốt
đẹp hơn , và văn nghệ sĩ bắt buộc phải suy nghĩ về vị trí của hắn trong
tiến trình lịch sử , thì chính sự vận động này cùng lúc áp đặt một khuôn
sáo , nó biến văn nghệ thành một thứ ngôn từ của nghệ thuật gồng gánh
thông điệp ; nếu không, hắn ta bị kết án là "duy mỹ", là rơi vào thẩm mỹ
suông.
Con
đường được lát bằng những ý định tốt, nhưng thường kết thúc thất bại…
Một số đông nghệ sĩ đã "chết"(cả nghĩa đen và nghĩa bóng) , để lại một
nghịch lý : nghệ thuật y nguyên như họ đã tìm thấy.
Dĩ nhiên là có những biệt lệ.
Ví
dụ như : Pablo Neruda tôn vinh Châu Mỹ La Tinh , tác phẩm của ông chạm
đến chiều kích thần thoại bằng cách ngợi ca một vùng đất, một lịch sử,
với tính cách anh hùng vô danh của một dân tộc. Tác phẩm đầy ấn tượng,
vừa trong đề tài, vừa trong cách nhìn.
Ngay
cả khi cách đặt vấn đề về duy mỹ chiếm phần lớn những tranh luận nghệ
thuật trong thế kỷ hai mươi, và những thái quá đã kéo theo phản ứng.
Nhà
văn Đức Gottfried Benn từng viết: “Nếu ai buộc tội anh theo trường phái
duy mỹ, cho hắn thấy lợi ích : hắn còn sống trong hang động tiền sử,”
Dù gì thì sự “Dấn Thân,” trong hay ngoài ngoặc kép , vẫn được phần đông văn nghệ sĩ coi là chính đáng.
Tuy
nhiên , vẫn luôn có tuy nhiên , người văn nghệ sĩ không thể không quan
tâm đến chất liệu đặc thù mà mình sử dụng, trong cái cách mà mình vận
dụng , có nghĩa là bằng cách nào : từ cấu trúc, đến hình thức, những gì
giúp sự vật được thao tác , tạo lập mối liên kết với những gì vây quanh.
Như
vậy , người văn nghệ sĩ , chuyên tâm vào thể nghiệm sáng tạo của mình ,
hắn không thể quên rằng hiện tại luôn can thiệp xuyên qua hình thức, và
hình thức này mang dấu triện của thời gian , vì thế giới quan luôn dính
liền vào thời đại sản sinh ra những hình thức tương ứng.
Chính ý thức này cho phép phân biệt giữa sáng tạo (poïésis) với việc nhai lại một công thức.
"Poïésis" trong tiếng Hy Lạp cổ đại có nghĩa là "làm ra", là từ gốc của thi ca (Poésie) hiện đại.
Như
vậy , ban đầu nó là một động từ chỉ một hành động vừa làm biến đổi vừa
làm nối tiếp thế giới. Nó không là sản phẩm kỹ thuật, cũng không là một
tạo tác trong nghĩa lãng mạn.
Tác
phẩm mang tính "Poïésis" giao thoa tư duy với vật chất và thời gian và
giao thoa con người với vũ trụ. "Nghệ thuật Dấn thân", bằng những chủ đề
chọn lựa, và bằng mối quan hệ với ngôn ngữ , làm nên một ngôn ngữ có
khả năng chụp bắt thế giới thật , đòi hỏi kết hợp trí tưởng tượng , và
như vậy thì "Nghệ Thuật Dấn Thân cũng giống như huyền thoại và truyền
thuyết được trộn lẫn với lịch sử ?
Bốn mươi năm trước, Octavio Paz phát biểu về một “truyền thống của cắt đứt.”
Paz
đề cập đến việc tìm kiếm những hình thức mới, khởi đi từ những trào lưu
tiền phong, đã tiến hành suốt gần hết thế kỷ 20, cho mục đích hiện đại
hóa hình thức.
Paz nhận chân rằng (như ông đã tuyên bố), đó là việc lập lại sự đoạn tuyệt đã khai sinh ra một truyền thống thật sự.
Paz
tố giác như thế, và chỉ ra một mâu thuẫn hiển nhiên : "Những kẻ khăng
khăng đoạn tuyệt với truyền thống, sau cùng đã tạo lập ra một truyền
thống khác."
Điều
này bắt buộc ta phải đặt lại vấn đề "Làm ra cái Mới", dính liền vào với
vấn đề của "Dấn Thân" , bởi đó là hai mặt của cùng một ý chí sáng tạo.
Tuy
vậy, việc song hành với “truyền thống của đoạn tuyệt” này, đã luôn hiện
hữu một xu thế khác, có thể quan trọng hơn, đó là “truyền thống của
kiến tạo", nó nổi lên mỗi khi một văn nghệ sĩ tự đề xuất tạo tác những
cấu trúc mới , sau khi đã dùng cạn những cấu trúc cũ.
Thời
hoàng kim Tây Ban Nha sẽ không kết tựu nếu thiếu cấu trúc castillane
của những vần thơ mười hai âm tiết xuất phát từ Ý, được các thi sĩ
Garcilaso de la Vega và Juan Boscán du nhập vào Tây Ban Nha.
Cũng sẽ không kết tựu thời Hiện Đại nếu thiếu sự đóng góp của thơ Tự Do .
Cũng không kết tựu sự mẫn cảm thi tính hiện nay nếu thiếu sáng tạo hình thức vào đầu thế kỷ 20.
Và
cũng không nhất thiết phải theo cách của Filippo Tommaso Marinetti , là
tìm cách "phá sập" để xem sản sinh ra gì từ "sự rung chuyển" này , mà
nên : thay thế những công thức tàn tật bằng những công thức khác đã cải
tiến . Stéphane Mallarmé, Thomas Stearns Elliot, Guillaume Apollinaire,
Marianne Moore, Saint-John Perse, Carlos Drummond de Andrade, Rubén
Dario hay César Vallejo,.... chỉ kể tên một vài người, gần như ngẫu
nhiên, đã là những kiến tạo gia xuất sắc.
Như vậy , trong lĩnh vực của những quan niệm đối lập, sự dấn thân của nghệ thuật nằm ở đâu ?
Thiển nghĩ : nó ở ngay chính giữa ( trung đạo).
Sự
dấn thân của văn nghệ sĩ, như một kẻ kháng cự lại thời gian, gắn liền
với những vấn đề sâu xa nhất của xã hội, nhưng không đi cùng đường với
các chính sách chính trị .
Đến
một thời điểm nào đó , sự khẩn cấp của hiện trạng xã hội sẽ đòi hỏi văn
nghệ sĩ làm chứng nhân của thời đại . Bằng những tác phẩm của mình ,
anh ta sẽ làm chứng một cách rõ ràng.
Cách
thức tham dự này đã diễn ra ở Miền Nam , trong thời "văn nghệ sĩ các đô
thị miền Nam đấu tranh đòi hòa bình -thống nhất ", nhưng phần lớn đã
thiếu tư cách chứng nhân , vì họ đã làm chứng không rõ ràng .
Tuy nhiên, sự dấn thân trong nghĩa rộng và có í nghĩa , luôn là sự cần thiết cho mọi xã hội .
Từ những cộng hưởng với xã hội, căn bản của sự dấn thân vẫn tồn tại.
Sự cộng hưởng này thường khó dự báo , nhất là trong văn nghệ .
Ví dụ : một bài thơ của Borges đã tạo ra một tương tác, không có nghĩa là bài thơ ấy mang tính chất dấn thân.
Và nếu thi ca của Francis Ponge được xem là thi ca dấn thân , không có nghĩa thi ca này xử lý những câu hỏi thời sự.
Có những tác phẩm đã giao cảm được với xã hội, được xã hội cảm thụ , tuy không hề được xã hội khẩn cầu nó xuất hiện.
Chỉ
cần ném một tia mắt ra thế giới , ta có thể thấy "Nghệ thuật Dấn thân"
không thiếu những biện minh của những văn nghệ sĩ tranh đấu .
Thế
nhưng không ít "văn nghệ sĩ tranh đấu" ở Việt Nam đã không trở nên
những nghệ sĩ tài hoa , mà chỉ trở thành những tuyên truyền viên mẫn cán
, thậm chí là những tay bồi bút mạt hạng .
Ở đây, chúng ta không bảo vệ hình thức chỉ để bảo vệ hình thức.
Văn nghệ sĩ phải sáng tác những điều gây ấn tượng .
Không nhất thiết phải viết về "chính trị lật đổ" hay những vụ "giết người vì tình" mới là gây ấn tượng .
Là
một tác phẩm gây ấn tượng , nó phải cho người ta nhìn thấy một chuyện
gì đó, mà đến khi ấy, người ta chưa biết đến , hoặc thường thấy nhưng
không viết ra "hay" được như thế .
Nó
làm thành một phong trào phát hiện ra cách chiếu sáng , rọi chiếu vào
những vùng tối tăm của tâm hồn , của đời sống... . Bằng những từ ngữ,
cấu trúc, định dạng..., văn nghệ sĩ chiếu sáng cả một thế giới nghệ
thuật .
Chính
từ đây , những chủ đề được trông đợi nhiều nhất, như tình yêu, tôn
giáo, chính trị , xã hội ...sẽ biến hóa kì ảo để trở nên “tác phẩm gây
ấn tượng.”
Vậy thì đúng ! Nghệ thuật sẽ được xem là dấn thân một khi nó mang tính nghệ thuật chân chính .
Và ngược lại .




0 nhận xét:
Đăng nhận xét