Thứ Năm, 18 tháng 4, 2013

"Nghệ thuật dấn thân" và "Nghệ thuật không dấn thân"

tranh của Guan Zeju


“Nghệ thuật vị nghệ thuật hay Nghệ thuật vị nhân sinh?” là một đề tài tranh luận lâu đời giữa các văn nghệ sĩ trên thế giới.
Tại Việt Nam, câu hỏi này đã gây nên một cuộc tranh luận vào thời tiền chiến , "nghệ thuật vị nhân sinh" được ngầm hiểu là "dấn thân chính trị" , cụ thể là tham chiến / phản chiến / lật đổ ... Và biến mất một cách lạ lùng sau ngày đất nước thống nhất .
Vì sao "Dấn Thân" không còn là nguyên liệu của sáng tác của văn nghệ sĩ Việt nam hôm nay ?
"Dấn Thân" là gì ?
Có lẽ ta cần phải nhắc lại một lần nữa ý nghĩa và điều kiện của "Dấn Thân".


"Trên nền cách mạng công nghiệp , thế kỷ 19 đã đặt một câu hỏi mà bấy giờ còn rất mới lạ : Nghệ thuật phải ích lợi , hay chỉ đi tìm cái Đẹp lý tưởng ?
Sang thế kỷ sau, sự tra vấn này hừng lên với màu sắc chính trị.
Nhưng trước hết , còn cần phải xem liệu đem "thẩm mỹ" đối lập với "hữu dụng" là chính đáng hay không."
(Le Monde Diplomatique)


Jorge Luis Borges từng quả quyết rằng :  từ ngữ “nghệ thuật dấn thân” gây cho ông cùng một cảm giác tựa như khi nghe nói đến “cách cưỡi ngựa Tin Lành”.
Đối với Borges, dùng từ “nghệ thuật dấn thân” cũng phi lý như dùng từ “cưỡi ngựa Tin Lành”, khi ghép Tin Lành là một tôn giáo siêu hình vào một hành động cưỡi ngựa cụ thể.
Với Borges, không có “Nghệ thuật dấn thân” hay “Nghệ thuật không dấn thân" , chỉ có nghệ thuật mà thôi. Cũng như không có cách “cưỡi ngựa Công Giáo” khác với cách “cưỡi ngựa Tin Lành.”

Trước đây đã có không ít văn nghệ sĩ Miền Nam cho rằng sự phân chia này là quá thiếu nghiêm túc và phi lý. "Dấn Thân" đã là một tính từ gây nên một sự khó chịu với một số người , vì nó được dùng quá nhiều trong văn giới Miền Nam . Ở Miền Nam , từ ngữ "Dấn Thân" chỉ dùng riêng cho một lối dấn thân , đó là dấn thân  về chính trị . "Văn nghệ chống đối" được coi là văn nghệ dấn thân .

Tại sao lại có sự thu hẹp phạm vi "dấn thân" đến lạ lùng như vậy ?
Đã có những dấn thân từ ngàn năm nay của nghệ thuật Tây phương trong lĩnh vực tôn giáo, đã tạo ra nhiều hình dung từ : Byzantin, Lãng Mạn, Gothique, hay chỉ đơn giản là Cơ Đốc , nhưng không hề có từ Dấn Thân.
Những lý do thâm sâu biện minh cho sự hiện hữu của nghệ thuật là phải ứng xử ra sao với chính trị, hay chính xác hơn nữa, trước chính quyền (giống như tình yêu, thần chết hay tín ngưỡng).
Song , với tính từ "Dấn Thân" , người văn nghệ sĩ hôm nay không những chỉ cần có một quan điểm chính trị , mà còn cần phải chọn lấy một quyết định gần như ám ảnh , đó là trưng bày chính kiến của mình , thậm chí khẳng quyết rằng : nghệ thuật có thể dùng làm công cụ chuyển đổi xã hội , thay đổi đời sống xã hội .
Và , sự “thay đổi đời sống" ấy là gì ?
Rất khó để có câu trả lời chung cho tất cả mọi người , nhưng theo ước muốn triệt để của Arthur Rimbaud , đó là tạo lập ra một cái gì khác, với nhiều phương án giả định.

Tại Việt Nam , đã có một thời chưa quá xa , dường như đã có một lớp văn nghệ sĩ cho rằng : không thể tách rời nghệ thuật ra khỏi chính trị , hay tinh thần tranh đấu . Và rồi tính từ "Dấn Thân" trở nên có vẻ mạnh hơn là danh từ "Sự Dấn Thân".
Chính trong sự mất quân bình này mà ta cần phải tìm nguyên nhân nào đã gây ra sự mất uy tín (ít nhiều) cho từ ngữ “Nghệ thuật dấn thân" .

Nếu “sự dấn thân” thật sự  luôn đi cùng với một đổi mới quan trọng trong văn nghệ , trong chính trị, trong đời sống xã hội ..., theo hướng tốt đẹp hơn , và văn nghệ sĩ bắt buộc phải suy nghĩ về vị trí của hắn trong tiến trình lịch sử , thì chính sự vận động này cùng lúc áp đặt một khuôn sáo , nó biến văn nghệ thành một thứ ngôn từ của nghệ thuật gồng gánh thông điệp ; nếu không, hắn ta bị kết án là "duy mỹ", là rơi vào thẩm mỹ suông.
Con đường được lát bằng những ý định tốt, nhưng thường kết thúc thất bại… Một số đông nghệ sĩ đã "chết"(cả nghĩa đen và nghĩa bóng) , để lại một nghịch lý :  nghệ thuật y nguyên như họ đã tìm thấy.
Dĩ nhiên là có những biệt lệ.
Ví dụ như : Pablo Neruda tôn vinh Châu Mỹ La Tinh , tác phẩm của ông chạm đến chiều kích thần thoại bằng cách ngợi ca một vùng đất, một lịch sử, với tính cách anh hùng vô danh của một dân tộc. Tác phẩm đầy ấn tượng, vừa trong đề tài, vừa trong cách nhìn.

Ngay cả khi cách đặt vấn đề về duy mỹ chiếm phần lớn những tranh luận nghệ thuật trong thế kỷ hai mươi, và những thái quá đã kéo theo phản ứng.
Nhà văn Đức Gottfried Benn từng viết: “Nếu ai buộc tội anh theo trường phái duy mỹ, cho hắn thấy lợi ích : hắn còn sống trong hang động tiền sử,”
Dù gì thì sự “Dấn Thân,” trong hay ngoài ngoặc kép , vẫn được phần đông văn nghệ sĩ coi là chính đáng.
Tuy nhiên , vẫn luôn có tuy nhiên , người văn nghệ sĩ không thể không quan tâm đến chất liệu đặc thù mà mình sử dụng, trong cái cách mà mình vận dụng , có nghĩa là bằng cách nào : từ cấu trúc, đến hình thức, những gì giúp sự vật được thao tác , tạo lập mối liên kết với những gì vây quanh.
Như vậy , người văn nghệ sĩ , chuyên tâm vào thể nghiệm sáng tạo của mình , hắn không thể quên rằng hiện tại luôn can thiệp xuyên qua hình thức, và hình thức này mang dấu triện của thời gian , vì thế giới quan luôn dính liền vào thời đại sản sinh ra những hình thức tương ứng.
Chính ý thức này cho phép phân biệt giữa sáng tạo (poïésis) với việc nhai lại một công thức.
"Poïésis" trong tiếng Hy Lạp cổ đại có nghĩa là "làm ra", là từ gốc của thi ca (Poésie) hiện đại.
Như vậy , ban đầu nó là một động từ chỉ một hành động vừa làm biến đổi vừa làm nối tiếp thế giới. Nó không là sản phẩm kỹ thuật, cũng không là một tạo tác trong nghĩa lãng mạn.
Tác phẩm mang tính "Poïésis" giao thoa tư duy với vật chất và thời gian và giao thoa con người với vũ trụ. "Nghệ thuật Dấn thân", bằng những chủ đề chọn lựa, và bằng mối quan hệ với ngôn ngữ , làm nên một ngôn ngữ có khả năng chụp bắt thế giới thật , đòi hỏi kết hợp trí tưởng tượng , và như vậy thì "Nghệ Thuật Dấn Thân cũng giống như huyền thoại và truyền thuyết được trộn lẫn với lịch sử ?

Bốn mươi năm trước, Octavio Paz phát biểu về một “truyền thống của cắt đứt.”
Paz đề cập đến việc tìm kiếm những hình thức mới, khởi đi từ những trào lưu tiền phong, đã tiến hành suốt gần hết thế kỷ 20, cho mục đích hiện đại hóa hình thức.
Paz nhận chân rằng (như ông đã tuyên bố), đó là việc lập lại sự đoạn tuyệt đã khai sinh ra một truyền thống thật sự.
Paz tố giác như thế, và chỉ ra một mâu thuẫn hiển nhiên : "Những kẻ khăng khăng đoạn tuyệt với truyền thống, sau cùng đã tạo lập ra một truyền thống khác."

Điều này bắt buộc ta phải đặt lại vấn đề "Làm ra cái Mới", dính liền vào với vấn đề của "Dấn Thân" , bởi đó là hai mặt của cùng một ý chí sáng tạo.
Tuy vậy, việc song hành với “truyền thống của đoạn tuyệt” này, đã luôn hiện hữu một xu thế khác, có thể quan trọng hơn, đó là “truyền thống của kiến tạo", nó nổi lên mỗi khi một văn nghệ sĩ  tự đề xuất tạo tác những cấu trúc mới , sau khi đã dùng cạn những cấu trúc cũ.
Thời hoàng kim Tây Ban Nha sẽ không kết tựu nếu thiếu cấu trúc castillane của những vần thơ mười hai âm tiết xuất phát từ Ý, được các thi sĩ Garcilaso de la Vega và Juan Boscán du nhập vào Tây Ban Nha.
Cũng sẽ không kết tựu thời Hiện Đại nếu thiếu sự đóng góp của thơ Tự Do .
Cũng không kết tựu sự mẫn cảm thi tính hiện nay nếu thiếu sáng tạo hình thức vào đầu thế kỷ 20.
Và cũng không nhất thiết phải theo cách của Filippo Tommaso Marinetti , là tìm cách "phá sập" để xem sản sinh ra gì từ "sự rung chuyển" này , mà nên : thay thế những công thức tàn tật bằng những công thức khác đã cải tiến . Stéphane Mallarmé, Thomas Stearns Elliot, Guillaume Apollinaire, Marianne Moore, Saint-John Perse, Carlos Drummond de Andrade, Rubén Dario hay César Vallejo,.... chỉ kể tên một vài người, gần như ngẫu nhiên, đã là những kiến tạo gia xuất sắc.

Như vậy , trong lĩnh vực của những quan niệm đối lập, sự dấn thân của nghệ thuật nằm ở đâu ?
Thiển nghĩ : nó ở ngay chính giữa ( trung đạo).
Sự dấn thân của văn nghệ sĩ, như một kẻ kháng cự lại thời gian, gắn liền với những vấn đề sâu xa nhất của xã hội, nhưng không đi cùng đường với các chính sách chính trị .
Đến một thời điểm nào đó , sự khẩn cấp của hiện trạng xã hội sẽ đòi hỏi văn nghệ sĩ làm chứng nhân của thời đại . Bằng những tác phẩm của mình , anh ta sẽ làm chứng một cách rõ ràng.
Cách thức tham dự này đã diễn ra ở Miền Nam , trong thời "văn nghệ sĩ các đô thị miền Nam đấu tranh đòi hòa bình -thống nhất ", nhưng phần lớn đã thiếu tư cách chứng nhân , vì họ đã làm chứng không rõ ràng .

Tuy nhiên, sự dấn thân trong nghĩa rộng và có í nghĩa , luôn là sự cần thiết cho mọi xã hội .
Từ những cộng hưởng với xã hội, căn bản của sự dấn thân vẫn tồn tại.
Sự cộng hưởng này thường khó dự báo , nhất là trong văn nghệ .
Ví dụ :  một bài thơ của Borges đã tạo ra một tương tác, không có nghĩa là bài thơ ấy mang tính chất dấn thân.
Và nếu thi ca của Francis Ponge được xem là thi ca dấn thân , không có nghĩa thi ca này xử lý những câu hỏi thời sự.
Có những tác phẩm đã giao cảm được với xã hội, được xã hội cảm thụ , tuy không hề được xã hội khẩn cầu nó xuất hiện.
Chỉ cần ném một tia mắt ra thế giới , ta có thể thấy "Nghệ thuật Dấn thân" không thiếu những biện minh của những văn nghệ sĩ tranh đấu .
Thế nhưng không ít "văn nghệ sĩ tranh đấu" ở Việt Nam đã không trở nên những nghệ sĩ tài hoa , mà chỉ trở thành những tuyên truyền viên mẫn cán , thậm chí là những tay bồi bút mạt hạng .

Ở đây, chúng ta không bảo vệ hình thức chỉ để bảo vệ hình thức.
Văn nghệ sĩ phải sáng tác những điều gây ấn tượng .
Không nhất thiết phải viết về "chính trị lật đổ" hay những vụ "giết người vì tình" mới là gây ấn tượng .
Là một tác phẩm gây ấn tượng , nó phải cho người ta nhìn thấy một chuyện gì đó, mà đến khi ấy, người ta chưa biết đến , hoặc thường thấy nhưng không viết ra "hay" được như thế .
Nó làm thành một phong trào phát hiện ra cách chiếu sáng , rọi chiếu vào những vùng tối tăm của tâm hồn , của đời sống... . Bằng những từ ngữ, cấu trúc, định dạng..., văn nghệ sĩ chiếu sáng cả một thế giới nghệ thuật .
Chính từ đây , những chủ đề được trông đợi nhiều nhất, như tình yêu, tôn giáo, chính trị , xã hội ...sẽ biến hóa kì ảo để trở nên “tác phẩm gây ấn tượng.”
Vậy thì đúng ! Nghệ thuật sẽ được xem là dấn thân một khi nó mang tính nghệ thuật chân chính .
Và ngược lại .


0 nhận xét:

Đăng nhận xét